Lịch sử Chủ_nghĩa_đế_quốc

Cuộc chiến của Đế quốc Ottoman ở châu Âu

Chủ nghĩa đế quốc đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử Nhật Bản, Đế quốc Assyria, Đế quốc Trung Quốc, Đế quốc La Mã, Hy Lạp, Đế quốc Đông La Mã, Đế quốc Ba Tư, Đế quốc Ottoman, Ai Cập cổ đại, Đế quốc Anh, Ấn Độ và nhiều đế quốc khác. Xét về phương diện lịch sử có rất nhiều đế quốc của người Hồi giáo được công nhận. Trước kỷ nguyên thực dân châu Âu, vùng châu Phi hạ Sahara từng tồn tại nhiều đế quốc như Đế quốc Ethiopia, Đế quốc Oyo, Đế quốc Ashanti, Đế quốc Luba, Đế quốc Lunda, và Đế quốc Mutapa. châu Mỹ vào thời kỳ tiền Colombo cũng đã có những đế quốc rộng lớn như Đế quốc AztecĐế quốc Inca.

Mặc dù thường được dùng để chỉ việc chính phủ nước ngoài áp đặt sự quản lý bằng vũ lực lên quốc gia khác hay vùng lãnh thổ chinh phạt mà trước đó không có một chính phủ thống nhất, thuật ngữ "chủ nghĩa đế quốc" đôi khi cũng có chức năng mô tả sức ảnh hưởng lỏng lẻo hoặc gián tiếp về kinh tế hay chính trị của nước lớn lên các nước nhỏ hơn.[8]

Chủ nghĩa đế quốc về văn hóa đề cập đến tầm ảnh hưởng của một quốc gia trong phạm vi văn hóa và xã hội, tức là quyền lực mềm của quốc gia đó; nó làm thay đổi thế giới quan về xã hội, văn hóa, đạo đức của đối tượng [quốc gia] chịu ảnh hưởng. Xét ở thời hiện đại, cụ thể đó là việc âm nhạc, truyền hình hay phim ảnh "nước ngoài", v.v... không chỉ trở nên phổ biến với giới trẻ mà hơn thế nữa còn làm thay đổi mức độ kỳ vọng vào cuộc sống và lòng khát khao của họ mong muốn đất nước mình trở nên giống hơn với quốc gia được mô tả. Ví dụ, vở kịch dài kỳ Dallas during the Cold War (Dallas trong Chiến tranh Lạnh) mô tả lối sống giàu sang của người Mỹ đã làm thay đổi sự kỳ vọng của người dân Romani; hay ví dụ gần đây hơn là sức ảnh hưởng của những bộ phim truyền hình Hàn Quốc nhập lậu tại Triều Tiên. Vì nhiều lý do, nhiều quốc gia, chế độ đã chiến đấu chống lại sự ảnh hưởng bằng một số biện pháp như cấm hoặc hạn chế các loại hình văn hóa đại chúng nước ngoài thông qua các biện pháp như kiểm duyệt.

Chủ nghĩa đế quốc bị những người chỉ trích phê phán về mặt đạo đức, bởi vậy thuật ngữ này thường được sử dụng trong công tác tuyên truyền quốc tế với nghĩa xấu ám chỉ chính sách ngoại giao hung hăng và bành trướng.[8]

Thời đại chủ nghĩa đế quốc

Kỷ nguyên chủ nghĩa đế quốc là một quãng thời gian bắt đầu vào khoảng năm 1700 với việc các nước công nghiệp (nhìn chung là châu Âu) tham gia vào quá trình thực dân hóa, tạo tầm ảnh hưởng và thôn tính các vùng lãnh thổ trên khắp thế giới nhằm thâu tóm quyền lực chính trị. Mặc dù thực tiễn đế quốc chủ nghĩa đã tồn tại hàng ngàn năm, thuật ngữ "thời đại chủ nghĩa đế quốc" nhìn chung đề cập đến hoạt động của các cường quốc châu Âu từ đầu thế kỷ XVIII cho tới giữa thế kỷ XX. Có thể kể tới một vài sự kiện như "Ván cờ lớn" tại vùng đất Ba Tư, "Tranh giành châu Phi" và "Chính sách mở cửa" tại Trung Quốc.[9]

Châu Phi bị chia làm bốn khu vực thuộc địa của các nước đế quốc khác nhau, khoảng 1913

Vào thế kỷ XX, các nhà sử học John Gallagher (1919–1980) và Ronald Robinson (1920–1999) đã tạo dựng một khuôn khổ nhằm lý giải chủ nghĩa đế quốc châu Âu. Họ khẳng định chủ nghĩa đế quốc châu Âu có tầm ảnh hưởng và các nước châu Âu bác bỏ quan điểm cho rằng "chủ nghĩa đế quốc" đòi hỏi sự quản lý chính thức, hợp pháp của một chính phủ lên quốc gia khác. "Trong con mắt của họ, các nhà sử học đã bị đế quốc chính thức và những bản đồ thế giới với những vùng màu đỏ làm cho mê hoặc. Tư bản, hoạt động thương mại, di cư quy mô lớn của Anh ra những vùng đất phía ngoài đã hình thành nên Đế quốc Anh. Điểm mấu chốt trong suy nghĩ của họ là quan niệm đế quốc 'phi chính thức nếu có thể và chính thức nếu cần thiết.'"[10] Nhờ các nguồn lực sẵn có do chủ nghĩa đế quốc tạo ra, nền kinh tế thế giới đã tăng trưởng đáng kể và trở nên kết nối hơn nhiều trong những thập kỷ trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, mang đến sự giàu có và thịnh vượng cho nhiều cường quốc đế quốc.[11]

Chủ nghĩa đế quốc châu Âu đa phần tập trung vào phát triển kinh tế bằng việc thu thập tài nguyên từ các thuộc địa kết hợp với nắm giữ quyền lực chính trị bằng các biện pháp chính trị và quân sự. Quá trình thực dân hóa Ấn Độ hồi giữa thế kỷ XVIII là một ví dụ: ở đó, "người Anh khai thác những yếu điểm chính trị của nhà nước Mughal và, trong khi hoạt động quân sự là quan trọng tại những thời điểm khác nhau, sự hợp nhất những thành phần tinh túy trong lĩnh vực hành chính và kinh tế cũng có ý nghĩa cốt yếu" cho việc thiết lập sự quản lý những nguồn tài nguyên, thị trường, và nhân lực của tiếu lục địa.[12] Mặc dù vào thế kỷ XVII và XVIII một số lượng đáng kể các thuộc địa được tạo ra nhằm mục đích cung cấp lợi nhuận kinh tế và chuyển giao những nguồn tài nguyên về chính quốc; thì đến thế kỷ XIX và XX, tại những khu vực như châu Á và châu Phi, quan niệm này không còn hợp lý một cách tất yếu:[13]

Các đế quốc hiện đại không tạo dựng những guồng máy kinh tế giả tạo. Sự bành trướng lần hai của các nước châu Âu là một quá trình lịch sử phức tạp mà ở đó những quyền lực chính trị, xã hội và cảm xúc tại châu Âu và bên ngoài có ảnh hưởng lớn hơn chủ nghĩa đế quốc dự tính. Các thuộc địa riêng lẻ có thể đáp ứng mục tiêu kinh tế; tựu trung không có đế quốc nào có bất kỳ chức năng có thể định rõ, về kinh tế hay gì đó khác. Các đế quốc chỉ đại diện cho một giai đoạn cụ thể trong mối quan hệ không ngừng biến đổi giữa châu Âu và phần còn lại của thế giới: những suy luận loại suy với các hệ thống kinh tế hay hoạt động đầu tư bất động sản đơn giản là tạo sự sai lạc.[14]

Trong thời kỳ này, những thương gia châu Âu có năng lực "rong ruổi ngoài bể khơi và thặng dư [của cải] từ khắp nơi trên thế giới (đôi khi bằng thái độ hòa nhã, đôi khi bạo lực) cho riêng mình và tập hợp chúng tại châu Âu."[15]

Cuộc tấn công của Anh vào Quảng Châu trong chiến tranh nha phiến lần thứ nhất, tháng 5 năm 1841

Người châu Âu đẩy mạnh đáng kể hoạt động bành trướng trong thế kỷ XIX. Các quốc gia châu Âu mở rộng quy mô nhập khẩu từ thuộc địa và những nước khác nhằm thu thập nguyên liệu thô. Các nhà tư bản công nghiệp châu Âu nỗ lực kiếm tìm những nguyên liệu như thuốc nhuộm, vải bông, dầu thực vật và quặng kim loại từ bên ngoài. Đồng thời, quá trình công nghiệp hóa đã nhanh chóng biến châu Âu thành trung tâm sản xuất và tăng trưởng kinh tế, kích thích nhu cầu nguồn lực.[16]

Việc truyền đạt thông tin tiến triển lên nhiều trong thời kỳ người châu Âu bành trướng. Với hai phát minh là đường sắt và điện tín, việc liên lạc giữa các quốc gia trở nên dễ dàng hơn giúp cho chính quốc mở rộng phạm vi quản lý hành chính lên các thuộc địa. Hệ thống đường sắt và đường biển góp phần hỗ trợ vận chuyển một lượng lớn hàng hóa từ thuộc địa đi các nơi khác và ngược lại.[16]

Cùng với những tiến bộ trong liên lạc, người châu Âu cũng đạt sự thăng tiến về kỹ nghệ quân sự. Các nhà hóa học châu Âu đã sáng chế ra chất nổ có thể áp dụng trong chiến đấu và với những đổi mới về máy móc họ có thể sản xuất những loại súng tốt hơn. Đến thập niên 1880, súng máy đã trở thành một vũ khí hiệu quả trên chiến trường. Công nghệ này mang lại lợi thế cho quân đội các nước châu Âu trước địch thủ bởi quân đội của các nước kém phát triển khi đó vẫn còn sử dụng cung tên, kiếm, và khiên da thuộc (ví dụ như người Zulu ở Nam Phi trong Chiến tranh Anglo-Zulu năm 1879).[16]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chủ_nghĩa_đế_quốc http://www.sbs.com.au/news/article/2004/07/21/pino... http://www.globalresearch.ca/isis-leader-abu-bakr-... http://www.globalresearch.ca/us-has-killed-more-th... http://www.comisiontortura.cl/inicio/index.php http://www.accessmylibrary.com/coms2/summary_0286-... http://acsor-surveys.com/wp-content/uploads/2015/0... http://dostoevskiansmiles.blogspot.com/2008/10/nat... http://www.doisongphapluat.com/tin-tuc/the-gioi/10... http://www.economist.com/displaystory.cfm?story_id... //books.google.com/books?id=3BDH9FK6grMC&pg=PA170